Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2013

TÌM HIỂU VỀ LỊCH SỬ LÀNG VĂN QUỸ



HỘI ĐỒNG TỘC TRƯỞNG

CHÁNH ĐIỆN ĐÌNH LÀNG
 ĐÌNH LÀNG
HỌ LÊ ĐỆ NHẤT TIỀN KHAI KHẨN TRÊN
HỌ NGUYỄN ĐỆ NHỊ TIỀN KHAI KHẨN ẢNH DƯỚI


HỌ ĐỔ ĐỆ TAM TIỀN KHAI KHẨN

HỌ TRẦN ĐỆ NHẤT TIỀN KHAI CANH  MỚI XÂY DỰNG XONG NĂM 2013
HỌ NGUYỄN VĂN
HỌ NGÔ ĐỆ TAM TIỀN KHAI CANH
HAI CÂU ĐỐI CỦA LÀNG

Bên Tả: Văn chương vạn thế trường tồn.Thiên nhật nguyệt.Địa sơn hà á vũ âu phong nan hối tắc.

Bên Hữu: Quỹ phạm bách vương bất dịch.Quốc quân thần gia phụ tử.Hán hưng tần diệt dã nan ô

Hai câu đối nầy được đặt hai bên gian giửa của chánh điện nhà Trường Thánh ở đầu làng đã bị bom đạn chiến tranh chống Pháp phá huỷ hoàn toàn vào những năm đầu thế kỉ XX.

HAI CÂU ĐỐI ĐẶT TẠI ĐÌNH LÀNG

-Từ Bắc di lai Hoan Châu xứ.Tiền nhân từ dã

-Tùng Nam khai thác Văn Quỹ Thôn Hậu Lê Lập Phường

Một tài liệu hiện nay Phái Nguyễn Văn thuộc Chồi nhất của phường Văn Phong có ghi rỏ như sau.

         Hồng Đức lục niên Tựu Đại Bổn Xã .Khẩn hoang lập ấp Xã Văn Quỹ

         Xã Văn Quỹ xưa thuộc Huyện Hải Lăng vào thời Triều nhà Nguyễn thuộc Tổng An Thơ thuộc phủ Hải Lăng,Từ năm 1954 đến 1974 là xã Hải Văn,từ năm 1975 đến nay được sát nhập chung với làng Câu nhi và Hà lỗ lấy tên xã Hải Tân thuộc huyện hải Lăng.

         Trong sách Ô CHÂU CẬN LỤC của thượng thư triều Mạc thượng thư Dương Văn An đã viết đến làng Văn Quỹ Như sau:”KẺ SĨ TRUNG NGHĨA VĂN QUỸ THÀ CHỊU CẮT TAI CHỨ KHÔNG THEO GIẶC” 
CUNG ĐÓN PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG TẠI TỈNH QUẢNG TRỊ 2013

         Vào tháng 05 năm Bính Ngọ 1306 Vua Chế Mân của nước Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài sang Đại Việt dâng hai châu là Châu Ô và Châu Lý để cầu hôn công chúa Huyền Trân của nước Đại Việt.Vua Trần Nhân Tông đã đồng ý vì Ngài đã lấy ảnh hưởng của đạo Phật là vì dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn để sống đoàn kết hoà bình tránh chiến tranh chém giết lẫn nhau, 
          “Hai Châu Ô ,Lí Vuông nghìn dặm,
Một gái Thuyền quyên đáng mấy mươi”  
           Nhà thơ nhà soạn dã Ưng Bình Khúc Dạ Thị người ở kinh thành Huế đã viết lên bài nước non ngàn dặm ra đi để ca ngợi sự hy sinh cao cả của Công Chúa Huyền Trân,"hai bài nầy cũng có một số nhà sử học ở Huế cho là của Vua Thành Thái". 
HÒ MÁI NHÌ HUẾ:
           Hải Vân quan mây chiều bao phủ,đây sóng vổ rì rầm,kia vượn hú nọ chim kêu,trớ trêu chi đem phận má hồng.Thay cho trống trận tướng lĩnh binh nha.Phụ Vương ơi có thấu mỗi bước mỗi xót xa ngậm ngùi.
CA NAM BÌNH HUẾ

           Nước non ngàn dặm,ra đi,cái tình chi,mượn màu son phấn,đền nợ Ô Ly,đắng cay vì đương độ xuân thì,số lao đao hay là nợ duyên gì.Má hồng da tuyết,quyết liễu như hoa tàn trăng khuyết, Vàng lẫn theo chì .Khúc ly ca sao còn mường tượng cung Tỳ.Thấy chim  hồng nhạn bay đi,tình lai láng.bóng dương hoa quỳ.Nguyện một lời minh quân,nay chuyện đà như nguyện đặng mười phân.Vì lợi cho dân.Tình đem lại mà cân,Đắng cay muôn phần./.

           Một sự hy sinh mà người dân Quảng Trị ,Thừa Thiên và Quảng Nam được thừa hưởng từ đó cho đến nay trong đó có làng Văn Quỹ chúng ta.

           Tháng 6 năm đó Huyền Trân Công Chúa đã về nhà chồng tại kinh thành Đồ Bàn thủ phủ nước Chiêm và trở thành Hoàng Hậu với mĩ hiệu là PARAMEVARI

           Cũng là lúc hai châu Ô,Lý được sát nhập vào lãnh thổ nước Đại Việt,địa giới hành chính được hoạch định từ Cửa Việt tới tận Quảng Nam”riêng vùng đất của hai huyện Vĩnh Linh và Do Linh đã được triều đình nhà Lí thu phục châu Minh linh của người Chăm pa vào năm 1069 nên người dân ở hai huyện nầy đã có từ thế kỉ XI”

            Một năm sau vua Chế Mân qua đời theo thuyết xưa của Chiêm Thành khi nhà Vua qua đời thì Hoàng Hậu phải được đưa lên dàn hoả thiêu theo chồng,đúng về thời gian theo sử sách ghi lại từ Thành Đồ Bàn của nước Chiêm đi theo đường biển hoặc đường bộ ra đến thành Thăng Long của nước Đại Việt phải đi 4 tháng về 4 tháng vì sao công chúa Huyền Trân vẫn còn chưa bị hoả thiêu?...

          Theo truyền thuyết dân gian và một số tài liệu đã ghi sau khi Vua Chế Mân qua đời vua kế vị của nước Chiêm là Chế Chỉ  không muốn hoả thiêu Công Chúa mà muốn trả Công Chúa lại cho Đại Việt để lấy lại hai châu Ô và Lý đã cử 300 chiếc thuyền bảo vệ theo đoàn điếu tang của nước đại việt ra thành Thăng Long,lúc ra giữa biển khơi Thượng Thư Trần Khắc Chung rẻ thuyền đi ra một đảo nhỏ ở một thời gian rồi đưa công chúa về Thăng Long sau, Người Chiêm lấy cớ là Trần Khắc Chung đã làm Ô nhục Hoàng Hậu nước Chiêm và đưa quân sang đánh kể từ đó cứ vài ba năm nước Chiêm đưa đại quân sang đánh một lần,đánh xong đốt nhà cướp của không cho dân ta yên ổn làm ăn và lập làng!

THEO LỊCH SỬ NƯỚC TA

          Vua Trần Nhân Tông thấy đất nước sống hoà bình người dân an cư lạc nghiệp đã lên ngôi Thái Thượng Hoàng rồi nhường ngôi Báu lại cho con là Trần Anh Tông Ngài lên núi Yên Tử xuất gia cầu đạo lập nên phái Thiền trúc lâm yên tử.Vua Trần Anh Tông lên nối ngôi vì quá thương công chúa và để bảo toàn tánh mạng của em mình đã sai Thượng Thư Tá Bộc xạ Trần Khắc Chung và An Phủ Sứ Đặng Văn sang nước Chiêm lấy cớ đi điếu tang để cứu công Chúa về nước gần một năm lênh đênh trên biển Trần Khắc Chung mới đưa được công chúa về tận Thăng Long,

           Trở lại lịch sử làng Văn Quỹ được thành lập vào niên đại nào?Chúng ta ngược dòng lịch sử của sách Ô châu cận lục "1553"ghi rỏ “Kẻ Sỉ Trung Nghĩa Văn Quỹ thà chịu cắt tai chứ không theo giặc” giặc đây là giặc nào có phải là Chiêm Thành hay không? Đại quân của Chiêm Thành đi sang đánh hai châu có lúc lên tới cả 20 vạn quân đánh xong đốt nhà cướp của và đe doạ thì kẻ sĩ trung nghĩa Văn Quỹ mới anh hùng gan dạ đến vậy, vào thời vua Chế Bồng Nga đưa quân sang đánh đại việt từ 1371 đến 1389 đã chiếm thành thăng long nhiều lần cướp của giết người trận cuối cùng năm 1390 hơn 100 chiếc thuyền đã đánh ra đến sông Hoàng Giang bằng đường thuỷ và muốn chiếm thành Thăng Long của nước ta thế đánh như vủ bảo cũng may là có một tướng của quân giặc tên là Ba Lậu Kê có tội sợ bị giết đã đến quy hàng và chỉ chiếc thuyền của Chế Bồng Nga tướng Trần Khát Chân của đại việt mới tập trung cung tên bắn vào thuyền,vua Chiêm tử trận,quân vô tướng như hổ vô đầu đành phải quay về,nước Chiêm nuôi mộng đưa đại quân chiếm lại hai châu  đánh ra thành thăng long ,vào năm 1471 vua chiêm là Trà Toàn đích thân đưa hơn mười vạn quân sang đánh nước ta,được tin báo về thành thăng long vua Lê Thánh Tông lên ngôi năm 1470 lấy hiệu là Hồng Đức năm 1471 thân chinh đưa 20 vạn 10 vạn đường thuỷ và 10 vạn đường bộ đánh trả và đã đánh vào tận thành Đồ Bàn,thắng lớn vua nước ta đã chia nước Chiêm thành ba nước là Chiêm Thành, Hoá Anh ,Nam Phan để cai trị và chịu cống nạp hàng năm cho đại việt kể từ đó nước Chiêm đã yếu đi và không đủ sức để đánh nước ta lại nửa dân chúng chăm lo công việc xây dựng nhà cửa để làm ăn,

          Theo một số tài liệu sau khi vua Lê Thánh Tông đánh thắng quân Chiêm năm 1471 có nhiều vị tướng lúc trở về thăng long đã ghé nghỉ chân các làng quê dọc bờ biển từ Lăng Cô ra đến cửa việt thấy đất đai phì nhiêu cá tôm hải sản trong vùng rất nhiều đã tâu lên vua xin về quê đưa bà con họ hàng của mình vào đàng trong định cư lập làng vua Lê Thánh Tông nghe và đã chuẩn y kể từ đó các vùng thuộc hai châu được ổn định để lập ra các xã theo địa giới mà sách Ô châu cận lục đã ghi lại trong đó có tên xã Văn Quỹ thanh niên rất gan dạ không chịu sự khuất phục của quân giặc thà chịu cắt tai của mình.

          Chúng ta nhìn lại quá khứ của quê hương và lịch sử đã được tôn vinh trong giai đoạn của thời các Chúa Nguyễn và triều đình nhà Nguyễn làng Văn quỹ có đầy đủ những vị quan trọng thần của triều đình,có rất nhiều mộ cổ trong đó có 5 ngôi ở nghĩa đia xóm Đông An,một số ngôi ven nghĩa địa đậu cầu và còn 1 ngôi của Ngài Tướng thần Thuận Nghĩa Tử Nguyễn Văn Thứ được an táng trên Phường Câu Nhi tại Bến Nê nay thuộc địa phận xã Hải Chánh mà tự hào các bậc tiền nhân của sáu dòng họ đã góp phần làm nên lịch sử cho quê hương và đất nước.

Mổi năm đến ngày giổ Tổ của các dòng Họ đều được tuyên sớ ghi lại công lao to lớn của Quý Ngài trong đó có đoạn viết .Hiển Thỉ Tổ Khảo Khai Khẩn,Khai Canh Khâm mông sắc phong dực bảo trung hưng gia tặng đoan túc linh phò Tôn Thần.Riêng ba ho Khai Khẩn được ghi thêm là “Hậu Lê Lập Phường” thì chúng ta suy luận là Xã Văn Quỹ xưa mà nay là làng Văn Quỹ có thể lập làng vào thời điểm nầy”Hồng Đức Lục niên Tựu đại bổn xã khẩn hoang lập ấp quy tụ lưu dân niên hiệu Hồng Đức được tính từ năm 1471”

Qua bài viết nầy tôi rất mong quý thức dã xem qua và góp ý kiến có gì chưa đúng hoặc thiếu sót rất mong sự chỉ giáo./.

Ngày 15/09/2013 Nguyễn Văn Hiền

MỘ CỔ THỜI CÁC CHÚA NGUYỄN
MỘ NGÀI CAI HỢP TƯỚNG THẦN LẠI TY TRẦN QUÝ CÔNG CẤP PHÁT QUÂN LƯƠNG CHO BINH LÍNH THUỘC ĐỊA PHẬN QUẢNG NAM THỜI CHÚA NGUYỄN
MỘ NGÀI TRI HUYỆN THÁI HOÀ NGUYỄN VĂN NÔ
MỘ NGÀI TƯỚNG THẦN LÍ TÀI TỬ NGUYỄN VĂN TRUNG

































1 nhận xét:

  1. Chào Bác! Bài viết rất hay, dạt dào tình yêu quê hương. theo thiển ý của cháu, xét: "Trong sách Ô CHÂU CẬN LỤC của thượng thư triều Mạc, tiến sỉDương Văn An đã viết đến làng Văn Quỹ Như sau:”KẺ SĨ TRUNG NGHĨA VĂN QUỸ THÀ CHỊU CẮT TAI CHỨ KHÔNG THEO GIẶC”...và Sách này được Ngài soạn từ năm 1553, nên có thể Giặc này xuất hiện trong khoản từ 1475(Hồng Đức lục niên) đến trước 1553(năm soạn O6CCL)...Cháu có ghé them mộ cổ làng Văn Quỹ, thật hay, quê cháu cũng có mộ cổ nếu có dịp mời Bác ghé thăm, kính Bác!
    http://quemequangtrihungnhon.blogspot.com/2012/05/hung-nhon-nhung-ngoi-mo-co.html

    Trả lờiXóa